Chung thiền trà nhân sinh Hoa nở gặp Phật. Phật ở chốn nào? Chốn đồng không mông quạnh cây cối xác xơ, một ngọn cỏ xanh là Phật. Đêm tuyết vắng im lìm lặng ngắt, một chậu than hồng là Phật. Chốn trời bể mênh mang vô bờ vô bến, một chiếc thuyền con là Phật. Giữa hình đời đa sắc rối ren, mộc mạc là Phật. Trong ngày dài bận rộn ồn ã, bình an là Phật. Gặp Phật bao giờ? Giữa tháng năm đợi chờ hoa nở, giữa phồn hoa giữ lấy chân thuần, tức là gặp Phật.
Sau hay, trà, trong cảm nhận của mỗi chúng sinh, đều mang một hương vị khác biệt. Một tuần trà mới châm bằng thứ nước tinh khiết nọ, vấn vít lấy răng môi khách thưởng trà. Nếm rồi, có kẻ bỗng thấy đượm vị đắng khổ cuộc đời, lại có người vẫn đạm nhạt tự gió trong. Trà, có nồng có lạt, có lạnh có nóng, cũng có buồn có vui. Đem cái tâm phàm tục thế gian đặng thưởng trà, tất khó mà không kẹt vào sắc, hương, vị. Ấy là đã kém mất phần thanh đạm cùng chất phác. Trà mang muôn ngàn tư vị, trà thậm chí dung hòa cả chuyện đời lẫn chuyện tình. Thưởng trà với tâm thoát tục xuất thế, thì có thể thung dung mà hưởng thụ cái đẹp an tĩnh của nét mây ngang trời, nước biếc lững lờ trôi. Trà bắt nguồn từ thiên nhiên, hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt, tắm tẩy lễ gột rửa bốn mùa, bởi vậy mà linh hồn non nước đượm trong linh tính của trà. Trà, có khả năng rửa sạch bụi trần, thanh lọc thâm tâm, kết rộng duyên lành. Nên người thực biết thưởng trà, cũng là người tự biết giản đơn cho cuộc sống của chính mình. Thủy chung vẫn tin rằng, thiền là cảnh giới của ý thức. Một số người dù đổi cả đời cũng không sao bỏ được chấp niệm, mà một số người, chỉ bằng thời gian cạn một chung trà, đã tức khắc vượt thoát sự đời đa đoan, như hoa sen bung nở. Đời người có bảy khổ(nhân sinh thất khổ), chúng sinh lưu lạc nhân gian, cũng chỉ là đem thảy những đau khổ cùng tột, đổi lấy một chút ngọt ngào. Tam giới phồn hoa, đến phút chót cũng hóa về cát bụi phù phiếm. Như ngày dài một khi đã trút bỏ bộ cánh hào hoa lộng lẫy, cũng trở về đêm đen lặng lẽ an bình. Thời gian trong một cái búng tay, những hơn thua được mất, những toan tính thành bại thuở ấy, đều đã như khói mây phiêu qua tầm mắt. Bất cứ lúc nào, bờ bên kia chỉ còn một bước chân, lầm đường trở lại, trời đất bao dung. “Tâm kinh” viết: “Không có ngăn ngại, nên không sợ hãi, thoát ly mộng tưởng điên đảo. Hết thảy tùy duyên, một đời do duyên, ấy đắc tự tại.” Con người quá ư quyến luyến cuộc đời, ắt không thích hợp tu hành. Một kẻ u mê nhân quả, cũng chẳng phải nên đi tu. Phật tính trong trà, cũng biêng biếc mây xanh cũng thanh tịnh như nước. Vài chén trôi xuống bụng, lòng dạ bèn thảnh thơi vơi hết sự đời. Bởi vậy mà kẻ Thích tử thường ưa châm một ngày dài tẩm trong tách trà, bỏ quên tạp niệm, chứng ngộ bồ đề tâm. Kiền khôn bao la, chúng ta là hạt cải bé xíu, không muốn nhiễu động đến thế giới, cũng chẳng nhường thế giới quấy rầy đến bản thân. Cái thuở người ta chào đời, vốn ai đã có hành trang, chỉ kinh qua bao chặng đường rồi, mới bỗng trĩu thêm một bao hành lý. Vả chăng chúng ta làm thế nào để bao hành lý đựng đầy thế tục kia, đổi thành hành trang vào cửa đạo? Chỉ có đem tâm thuần tịnh mà ngó trạng đời muôn biến, mới có thể bỏ đi cái nhìn lệch lạc, để trong bình lặng tìm về yên vui. Trà, có bốn đức từ bi hỷ xả. Chân ý “vân thủy thiền tâm” nọ, chỉ là nhấp một chén trà trong mà thường thức ra cái lý có sinh ắt có tử, tụ rồi tất sẽ tan, tốt tươi lại úa tàn mà thôi. Nên hiểu rằng bi thương thế nào cũng đều là vui sướng, đương thì mất mát cũng là gặt hái được về.Một người muốn từ bi với vạn vật, trước hãy từ bi với chính mình đi đã. . . . Thời gian trôi như dòng nước, vô ngôn là cái đẹp tuyệt vời. Ngày dài là cánh hoa sen, thường hòa mà rất nhã. Thưởng trà cũng là thiền, kể chi chốn bụi hồng hỗn tạp, hay non sâu tĩnh mịch không người, đạo tràng tu tập không đâu không có. Khắc chế dục vọng, diệt trừ phiền não, chẳng sợ là bi quan, cũng không hề phải trốn tránh, rốt chỉ là một cách sống giản dị mà thôi. Nếu thường an trú, trái tim nhỏ nhoi kia sao lại dung không hết vạn pháp sinh diệt? Này bao duyên tình của trần thế, thảy đều đã nằm trong định mệnh cả rồi. Tình kia ai biết có duyên chăng, mà duyên kia ai chắc đeo nặng tình. Cứ biết thuận theo duyên mà yên sống, tất có thể ngộ đạo. Nước trà thanh tẩy tâm hồn, tâm ta là đài gượng rọi, biết soi thấu chính bản thân mình, người ấy cũng sẽ lần ra được thế gian vô thường chẳng khác. Lúc lâm vào ý loạn tình mê, tuyệt không cần sinh lòng hoảng hốt. Tĩnh tâm tọa thiền, ngày mai vẫn tới trong lời hẹn. Hoa xuân hãy đẹp, thu nguyệt vẫn thường viên. Lời kinh “Kim Cang” có rằng: “Tâm quá khứ không thể đặng, tâm hiện tại chẳng thể đắc, tâm vị lại cũng không thể.” Chúng ta đừng nên vì màn kịch bi thương đã sắp sẵn mà lựa lấy đau khổ, cũng chớ để sự vẹn toàn chưa tới chặn mất bước đường tu. Uống trà, đó là tu dưỡng tâm tính, cậy lấy thức thủy vô trần khiết tịnh kia hòng ngộ ý thiền, để cho chúng ta không mê lầm trong hình thức, khỏi dạt bờ lênh đênh theo dòng vô nghĩa, nhanh nhanh cập bỉ ngạn tịch tĩnh thánh thuần. Uống trà cũng khiến lòng người xả bỏ cơn giận, thứ tha lỗi lầm, do nơi một chén trà mà được cái điều thanh thản. Cuộc đời đẹp nhất là cuộc đời trắng không, cái trắng không kia chính là “không minh” mà Phật gia thường nhắc tới. Đời người là sân khấu thích hợp nhất để tôn vinh tự ngã. Nếu quả một ngày kịch cũ bước vào hồi kết, một khi lựa chọn ra đi rồi, chắc chắn sẽ thực buông xuôi tất cả, nhưng chẳng phải lâm vào đường cùng ngõ cụt. Nên tin rằng, không có lựa chọn mới chính là lựa chọn tốt nhất.
0 Comments
|
AuthorWrite something about yourself. No need to be fancy, just an overview. ArchivesCategories |